Chắc có lẽ Các Bạn trên Fb có những người đã - TopicsExpress



          

Chắc có lẽ Các Bạn trên Fb có những người đã từng biết về phong tục cưới hỏi của Dân tộc Việt Nam mình. Tôi đã có dip đọc được thông tin này, và rất thích nó. xin được chia sẽ với những ai chưa xem qua, nếu thích xin hãy like nhé. Xin cám ơn Sự khác biệt trong lễ cưới hỏi giữa ba miền. "Ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam, đám cưới luôn là dịp quan trọng trong cuộc đời. Các trình tự cũng như thủ tục cưới hỏi sẽ có nhiều đặc trưng riêng biệt, mang đậm phong tục từng miền." Miền Bắc: Ở các tỉnh, thành phố phía Bắc, các gia đình thường tổ chức lễ cưới theo 3 bước chính gồm dạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu, một số nhà còn có lễ lại mặt, là hình thức hai vợ chồng trở về nhà gái cúng gia tiên sau khi lễ đón dâu đã hoàn tất. Người Bắc có tục thách cưới, nhà gái sẽ được yêu cầu nhà trai chuẩn bị những đồ lễ nhất định. Trong số đồ lễ của của người Bắc nhất định phải có trầu cau, bánh cốm. Các quy định cưới hỏi ở miền Bắc là nghiêm ngặt nhất trong số 3 miền, ngày giờ tốt phải được chọn kỹ lưỡng, các tráp ăn hỏi cũng phải chuẩn bị đầy đủ, phải là số lẻ và lễ ăn hỏi phải diễn ra trước đám cưới ít nhất một tuần tới 10 ngày. Trước kia, lễ ăn hỏi và lễ cưới không được diễn ra trong cùng một ngày, để hai nhà có thời gian chuẩn bị tiệc và mời khách chu đáo. Lễ đón dâu của người miền Bắc xưa có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước phải là những người giàu sang, có địa vịtrong dòng họ. Miền Trung: Người miền Trung, mà cụ thể là tại cố đô Huế có tục cưới xin đơn giản, tiết kiệm, trọng lễ nghi, không trọng tiền bạc. Người Huế cũng có các bước như dạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu nhưng ý nghĩa có khác đôi chút so với miền Bắc. Để chuẩn bị cho đám hỏi, đám cưới, người Huếthường lên chùa nhờ các vị cao tăng xem ngày, giờ tốt. Sau khi đã chọn giờ ưng ý, hai bên thông gia sẽ thông báo cho nhau bằng một cuộc thăm hỏi (dạm ngõ) đơn giản. Thậm chí, tại nhiều vùng, việc dạm ngõ có thể do hai bạn trẻ đứng ra tiến hành nếu hai gia đình đã quen thân nhau từtrước. Đám ăn hỏi của người Huế được xem như buổi gặp mặt lớn của hai họ, không tổ chức rầm rộ. Đám cưới Huế có các lễ như xin giờ,nghinh hôn, bái tơ hồng, rước dâu diễn ra ở nhà gái, đón dâu, lễ gia tiên ở nhà trai. Người Huế không có tục thách cưới, lễ vật trong đám cưới có thể gồm trầu cau, rượu trà, nến, bánh phu thê. Ngoài ra, đám cưới ở Huế luôn có phù dâu, phù rể và hai đứa trẻ, một bé trai, một bé gái rước đèn đi trước. Trong đêm tân hôn, đôi uyên ương phải làm lễ giao bôi hợp cẩn. Người Huế có tập tục để trong phòng tân hôn một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu giao bôi. Cặp vợ chồng mới cưới phải nhai hết 12 miếng trầu, tượng trưng cho 12 tháng hòa hợp trong năm, 12 năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Việc ăn muối, ăn gừng mang màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng thắm. Lễ cưới ở Huế khá cầu kỳ về nghi thức, nhưng cũng rấtđơn giản, không tổ chức ồn ào, khoa trương trong tất cả các nghi lễ. Đặc biệt, việc hợp tuổi hợp mệnh là vấn đề được quan tâm nhất trong lễ cưới tại Huế. Ví dụ, khi đi may áo cưới, áo dài, phải chọn ngày giờ tốt, người thợ may phải là người có cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc. Miền Nam: Người dân phía Nam thường có lối suy nghĩ phóng khoáng, vì thế, nhưng phong tục cưới hỏi của họ cũng có phần thoải mái, giảm nhẹ hơn. Lễ cưới tại miền Nam vẫn có đủ 3 nghi thức là dạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu. Nhưng không như miền Bắc, người miền Nam có thể bỏ qua lễdạm ngõ mà tiến hành lễ ăn hỏi và đón dâu cùng một ngày nếu gia đình một trong hai nhà ở xa, đi lại vất vả. Khi gộp hai lễ này, tráp ăn hỏi và lễ vật cúng tổ tiên khi đón dâu sẽ được gộp lại. Tuy nhiên, có một nghi lễ bắt buộc cần có trong đám cưới miền Nam, đó là lễ lên đèn. Nhà trai sẽ phải mang hai ngọn nến cỡlớn đến nhà gái khi đón dâu. Khi tiến hành cúng gia tiên tại nhà gái, cô dâu và chú rể phải tự tay thắp nến để lên bàn thờ, đó giống như tuyên bố chính thức, gắn kết hai người bên nhau trọn đời. Nhưng dù khác nhau về phong tục, quan niệm trong cưới hỏi, các gia đình đều mong muốn những phong tục đó sẽ đem đến cuộc sống hạnh phúc lâu bền cho đôi uyên ương và giúp cuộc sống sau này của họ được thuận buồm xuôi gió. Địa chỉ liên hệ : Resmay Video số 1009 - Đường Trần Hưng Đạo - Phường 10, Tp. Sóc Trăng - ĐT : 0919 949 665 អាស័យដ្ឋានទាក់ទង៖ រស្មី វ៉ីដេអូ លេខ ១០០៩ - វិថី ដាវ - សង្កាត់ ១០ - ក្រុង សុកត្រាំង "VÀI NÉT VỀ LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI KHMER". Bản sắc văn hóa Việt vốn thống nhất trong đa dạng với những sắc thái văn hóa các vùng miền. Là một trong 54 dân tộc anh em trên dải đất Việt Nam tươi đẹp, từ lâu người Khmer đã sáng tạo lên một bản sắc văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng. Một trong những phong tục, đó là lễ cưới (A-pea Pi-pea). Theo quan niệm của ngươi Khmer thì lễ cưới phải được tổ chức vào những tháng đủ (30 ngày) thì mới được may mắn và hạnh phúc. Lễ cưới của đôi trẻ người Khmer thường được chọn theo dương lịch và diễn ra với ba nghi lễ: Lễ Sđây Đol Đâng (Lễ nói), Lễ Lơng ma ha (Lễ hỏi), Lễ Pithi A-pea-Pi-pea (Lễ cưới). Lễ Sđây Đol Đâng (Lễ nói) là lễ đầu tiên trong hệ thống các nghi lễ cưới của người Khmer. Trong lễ này, đàng trai chọn Nék Chău Ma Ha (người làm mai) đi cùng đến nhà gái làm lễ nói. Lễ vật gồm: Bánh, trái cây, trầu cau …, mỗi thứ đều là số chẵn. Bà mối trong lễ Sđây Đol Đâng phải là người có uy tín, ăn nói hoạt bát, hiểu biết nhiều. Đây là người đã lập gia đình, vợ chồng sống hạnh phúc, đầm ấm, cháu con đầy đủ. Bà mối đến nhà gái dạm hỏi và tìm hiểu ngày tháng năm sinh của cô gái. Lễ tiếp theo là lễ Lơng ma ha (Lễ hỏi), hai nhà thông báo cho thân nhân và lối xóm biết hai đàng đã chính thức là xui gia. Lễ vật nhà trai đem sang nhà gái gồm: 4 nải chuối, 4 chai rượu, 4 gói trà, 4 gói trầu, 2 đùi heo, 2 con gà, 2 con vịt và một số tiền. Trong lễ này, ngày tháng tổ chức đám cưới cũng được hai họ thống nhất. Thông thường, để làm tốt công việc này bà mối phải đến nhà gái 3 lần. Có những gia đình nhà gái yêu cầu sau khi bà mối đến thì phải có 3 ông mối đến nói chuyện với cha cô gái. Sau khi định rõ ngày lành tháng tốt, ông – bà mối cùng đàng trai đem lễvật đến cúng tổ tiên nhà gái. Lễ vật đặt trên các đĩa bạc hoặc trong các thạp gỗ sơn son thếp vàng. Vị a-cha đọc kinh cầu nguyện cho đôi trai gái thành vợ thành chồng cũng như đọc kinh phù hộ cho họ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Rồi sau đó chọn người ăn nói vui vẻ đến dự lễ ăn hỏi hầu mang đến niềm vui cho hai họ, nhất là cho cô dâu chú rể. Sau lễ hỏi, chú rể tương lai được phép đến nhà cô dâu để hầu hạ cha mẹ vợ sắp cưới của mình. Lễ quan trọng nhất trong hệ thống lễ cưới của người Khmer là lễ Pithi A – pea –Pi– pea (lễ cưới). Lễ này được diễn ra tại nhà gái, dưới sự điều khiển của Acha Pô Lia (thầy cúng). Những nghi lễ chính: tiễn đưa chàng rể về nhà gái; dâng cơm cho sư; cắt tóc; lạy ông bà; rắc bông cau; nhập phòng, nghi lễ được thực hiện theo các điệu nhạc múa cổ truyền. Ngày xưa, lễ cưới thường được tổ chức trong 3 ngày khá phức tạp và tốn kém. Trước ngày cưới, nhà trai dựng cạnh nhà cô dâu một dãy nhà tạm bằng tre lá. Nhà có ba gian: một gian làm bếp, một gian để đãi tiệc và một gian đểcác chùm hoa cau. Ngày thứ nhất là ngày làm bánh (thường phải có bánh tét, bánh ít và đặc biệt không thể thiếu bánh gừng (Num kha-nhây) và bày tiệc. Ngày thứ hai chú rể và nhiều người khác đến ngồi trong gian nhà đặt hoa cau. Buổi trưa là lễ cắt tóc. Trong lễ có một ca sĩ vừa hát vừa múa theo điệu nhạc, đi vòng quanh cô dâu chú rể, thỉnh thoảng giơ kéo cắt một vài sợi tóc của hai người. Tục này nhằm cắt bỏ những điều xấu khỏi cuộcđời của đôi trai gái. Buổi chiều, cha mẹ cô dâu buộc chỉ vào cổ tay cô dâu chú rể, rồi buộc cả cho người thân và bạn bè. Lễ buộc chỉ xong, mọi người cùng nhau vui vẻ dự tiệc. Sang ngày thứ ba, cô dâu mặc quần áo theo truyền thống, váy bằng lụa, thắt lưng bằng bạc hoặc mạ vàng, khăn quàng thêu kim tuyến quấn lấy thân và vắt sang vai trái. Chú rể có thể mặc quần tây áo sơ-mi. Cô dâu chú rể lạy trước bàn đặt hoa cau rồi ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu bông. Vị a-cha thắp nhang đèn, đọc kinh và lời khấn bằng tiếng Pa-li cầu xin ơn trên ban phước lành cho đôi tân hôn. Sau đó, ông cầm thanh gươm đi với những người mang hoa cau làm lễ Mặt trời. Chú rể cầm quạt che mặt bước lên nhà trong lúc ba tiếng cồng được đánh ngân vang. Em trai hoặc em gái của cô dâu đón chú rể, gởi chăn mền và đưa cho chú rể một miếng trầu. Sau đó chú rể lì xì cho cậu em trai hoặc em gái cô dâu một số tiền nhỏ. Khi vào nhà, chú rể ngồi xuống chiếu, mặt quay về hướng Đông. Trước mặt chú rể đã bày sẵn 3 dĩa hoa cau, xung quanh là các mâm bánh tét, bánh ít, bánh gừng một cái đầu heo luộc và một con gà luộc. Sau khi chú rểkính cẩn lạy mọi người trán chạm xuống chiếu, vị a-cha trao cho chú chùm hoa cau thứ nhất dành tặng cha vợ, chùm thứ hai cho mẹ vợ và chùm thứba cho em vợ để tỏ lòng biết ơn những người đã có công nuôi dưỡng, chăm sóc giúp đỡ vợ mình trong thời gian qua. Lễ xong, mọi người chúc mừng đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc, đàn hát ca múa vui vẻ. Sau đó mới thắp đèn cầy xung quanh cô dâu chú rể. Đèn cầy được chẻ làm hai nhánh, người này cầm xong trao cho người bên trái mình. Cứ thế cho đến khi đủ 19 vòng thì tắt đèn cầy. Vị a-cha lấy hoa cau ném cho mọi người xung quanh. Và mọi người cùng ném hoa cau vào nhau để chúc mừng hạnh phúc. Đến chiều tối, theo tiếng cồng, chú rể bám vào chiếc khăn của cô dâu (tôn xa-bay), cả hai bước vào phòng. Hai vợ chồng ngồi đối mặt nhau mà cô dâu có hai phụ dâu ngồi hai bên. Chú rể múc một muỗng cơm đút cho cô dâu. Cô dâu đáp lễ. Cũng làm ba lần như thế là tục ăn chuối. Sau đó, một người phụ dâu dùng tay cụng đầu cô dâu vào đầu chú rể, và dặn dò nhữngđiều cần thiết theo phong tục tập quán cổ truyền. Đó là quy trình nghi lễ trong đám cưới cổ truyền của người Khmer. Tuy nhiên, hiên nay lễ cưới của người Khmer đã đơn giản hóa đi nhiều, thậm chí có gia đình còn pha thêm một ít nghi lễ cưới xin của người Hoa và người Việt vào, ở thành thị đã được đơn giản hơn và chỉ tập trung trong chỉ một ngày. Tuy nhiên lễ cưới hỏi của người Khmer Nam bộ ở nông thôn vẫn còn được lưu giữ nghiêm ngặt theo luật tục cổ truyền.
Posted on: Thu, 12 Sep 2013 07:30:23 +0000

Trending Topics



Recently Viewed Topics




© 2015